Sinh hoạt

TRANG GIAO LƯU SINH HOẠT TRÍ TUỆ 
 Nhận định về 2 quyễn sổ tay nầy
Trao đổi về 2 câu thơ:
Em nên điểm phấn tô son lại,
Ngạo với nhân gian một nụ cười.

Đây là 2 câu thơ trong bài Cảnh đoạn trường của nhà thơ Thái Can (1910-1998) sinh tại Văn Lâm, Đức Thọ (Hà Tĩnh). Học trường phủ, trường Vinh, trường bảo hộ, trường thuốc Hà Nội, tốt nghiệp bác sĩ y khoa năm 1940. Đã từng đăng thơ ở báo Phong Hoá, báo Hà Nội, tạp chí Văn Học.

Có người nói 2 câu thơ trên có dị bản ( thơ chế ) như sau:

Em về sửa vú cho tròn lại ,

chiều cái hoang đàng của khách chơi

  Thật ra 2 câu nầy không phải thơ chế mà nó trong bài thơ Oan nghiệt của Nguyễn Bính. Nguyên bản là

Mẹ con nịt vú cho tròn lại
Chiều cái hoang đàng lũ khách chơi. 
 
Chuyên đề: ĐƯỜNG CHỜ LÚN

Cách hiểu đúng đắn từ ngữ “ Chờ Lún”
   Một đứa trẻ chỉ tấm biển bên đường và hỏi: “Ông Chờ Lún có công trạng gì mà được đặt tên đường vậy ba”. Ba nó phải vận dụng tối đa kiến thức để giải thích “chờ lún” không phải là tên một danh nhân, mà là một công đoạn trong kỹ thuật làm đường.

- Theo TS. PHẠM SANH, chuyên gia về giao thông: Các bảng “đường chờ lún” không biết có ở Việt Nam từ bao giờ. Lúc đầu chỉ xuất hiện ở các đường dẫn vào cầu rồi sau đó lan ra các đoạn đường bình thường. Đây là một hiện tượng nói lên tính thiếu trách nhiệm và không có cơ sở khoa học của các cá nhân, tổ chức tham gia thực hiện dự án. Họ không tính toán được hoặc tính toán sai về lún, thậm chí nghi ngờ cả kết quả tính toán của mình rồi tư vấn đưa ra giải pháp đối phó gây lãng phí tiêu cực và làm mất lòng tin trong người dân về ngành giao thông. Nhưng đáng tiếc vẫn không thấy Bộ GTVT lên tiếng giải thích về chuyện chờ lún này, để hậu quả ngày càng nghiêm trọng với việc tăng nhanh số lượng bảng báo “đường chờ lún”. 

- TheoTS Phạm Văn Long- giám đốc Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng Vina Mekong


Tại Việt Nam có nhiều công trình cầu đường mới xây dựng được đặt tên “đường chờ lún”, một cái tên bất bình thường. Thế nhưng các cơ quan hữu quan vẫn chưa đưa ra những giải pháp xử lý triệt để.

- Tồn tại lớn nhất của các công trình xây dựng trên nền đất yếu ở nước ta hiện nay là không khống chế được độ lún kéo dài sau khi thi công, đặc biệt là ở đoạn tiếp giáp giữa đường đắp trên nền đất yếu và công trình bêtông (mố cầu, cống) đặt trên nền cọc (như đã xảy ra ở các công trình đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ ở phía Bắc, kho cảng Thị Vải ở Bà Rịa - Vũng Tàu, đường dẫn vào cầu vượt Nguyễn Hữu Cảnh, cầu Văn Thánh 2 ở TP.HCM) và nhiều công trình khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Chính vì vậy nhiều công trình sau khi xây dựng phải đặt tên “đường chờ lún”.

Theo tôi, một trong các nguyên nhân dẫn đến tồn tại nêu trên là các tiêu chuẩn hiện hành (do Bộ Xây dựng và Bộ Giao thông vận tải ban hành) về khảo sát, thiết kế và thi công công trình trên nền đất yếu chưa hoàn chỉnh.

* Cơ sở nào để nói rằng tiêu chuẩn do các bộ ban hành chưa hoàn chỉnh?

- Đã có nhiều năm nghiên cứu và thiết kế công trình trên nền đất yếu nên tôi nghiên cứu rất kỹ các tiêu chuẩn khảo sát thiết kế nền đất yếu hiện hành. Trong các tiêu chuẩn đó có nhiều điểm chưa thống nhất, chưa rõ ràng, chưa hợp lý và còn những sai sót trong thuật ngữ, tiêu chuẩn thí nghiệm, công thức tính toán và yêu cầu thiết kế.

Chẳng hạn, trong qui định về độ lún yêu cầu cần đạt được của nền đường trước khi dỡ tải là 90% của độ lún cố kết sơ cấp dự tính và không xét đến độ lún cố kết thứ cấp. Điều này sẽ dẫn đến độ lún dư sau khi thi công rất lớn, có thể lớn hơn 50cm trong những công trình có nền đất yếu dày hơn 20m như thường gặp ở TP.HCM và ở đồng bằng sông Cửu Long.

Đây có thể là một trong những điểm chính dẫn đến độ lún dư quá lớn sau khi xây dựng công trình ở các đoạn đường vào cầu hiện tại...

Về khảo sát địa chất làm cơ sở cho thiết kế xử lý nền, do nền đất yếu có độ rỗng rất lớn, trong đất thường chỉ chứa khoảng 1/3 là cốt đất, còn lại là nước. Do vậy, cần phải có một qui trình khảo sát chặt chẽ và thiết bị thí nghiệm phù hợp.

Tuy nhiên, những yêu cầu này cũng chưa được qui định đầy đủ trong các tiêu chuẩn khảo sát và thí nghiệm hiện hành. Ngay cả một thí nghiệm rất cơ bản và rất cần thiết cho thiết kế nền đất yếu như thí nghiệm nén cố kết cũng chưa có đơn giá nên đã gây ra không ít khó khăn cho công tác thiết kế và thí nghiệm.

* Tại sao các đơn vị tư vấn thiết kế biết những thiếu sót này mà vẫn đưa vào hồ sơ thiết kế?

- Có thể có những đơn vị thiết kế đã biết nhưng vẫn đưa vào hồ sơ thiết kế do phải tuân thủ theo tiêu chuẩn thiết kế hiện hành. Nhưng cũng có nhiều kỹ sư thiết kế chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn về nền đất yếu nên đã áp dụng một cách máy móc, kể cả những điểm sai sót hoặc không hợp lý.

* Phải chăng trong đào tạo và nghiên cứu cũng có những điểm bất ổn ?

- Thiết kế xử lý nền đất yếu đòi hỏi người kỹ sư thiết kế phải có kinh nghiệm thực tiễn và phải có kiến thức vững vàng về cơ học đất - nền móng, đặc biệt là về các tính chất của đất yếu. Theo tôi biết, hiện nay ở nước ta chưa có những nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ về nền đất yếu như ở các nước lân cận trong khu vực.

Về đào tạo, các đặc điểm của nền đất yếu và các phương pháp xử lý nền đất yếu cũng chưa được đề cập đầy đủ trong các giáo trình cơ học đất và nền móng trong các trường đại học.
Hiện nay, ở Trường đại học Bách khoa TP.HCM có chuyên ngành cao học về công trình trên nền đất yếu, nhưng chủ yếu là giảng dạy về lý thuyết, còn thiết bị thí nghiệm để nghiên cứu chuyên sâu về nền đất yếu hầu như chưa có.
* Nếu tiếp tục áp dụng các tiêu chuẩn nêu trên thì hậu quả là gì?
- Nếu áp dụng một cách máy móc, kể cả những điểm còn sai sót trong các tiêu chuẩn vừa nêu, thì tùy theo điều kiện áp dụng mà có trường hợp dẫn đến công trình không bảo đảm an toàn, nhưng cũng có trường hợp gây lãng phí, và hiện tượng “đường chờ lún” ở các đầu cầu là khó tránh khỏi.
- Theo GS Sử học Dương Trung Quốc

Căn cứ Nghị định số: 91/2005/NĐ-CP, ngày 11 tháng 07 năm 2005 . Tại  Điều 10

 Đường, phố được đặt tên trên cơ sở lựa chọn một trong các tên sau đây:

1. Tên địa danh nổi tiếng, có ý nghĩa và có giá trị tiêu biểu về lịch sử - văn hoá của đất nước hoặc địa phương; địa danh đã quen dùng từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của nhân dân; tên địa phương kết nghĩa hoặc có mối quan hệ đặc biệt.

2. Danh từ có ý nghĩa tiêu biểu về chính trị, văn hoá, xã hội.

3. Tên di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh có giá trị tiêu biểu của quốc gia hoặc địa phương và đã được xếp hạng theo quy định của Luật Di sản văn hoá.

4. Tên phong trào cách mạng, sự kiện lịch sử, chiến thắng chống xâm lược có giá trị tiêu biểu của quốc gia hoặc địa phương.

5. Tên danh nhân bao gồm cả danh nhân nước ngoài. Danh nhân đó phải là người nổi tiếng, có đức, có tài, có đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cũng như của địa phương hoặc có đóng góp đặc biệt cho đất nước, có công lớn trong hoạt động văn hoá, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, phát triển tình hữu nghị giữa các dân tộc, được nhân dân suy tôn và thừa nhận.

Những nhân vật lịch sử còn có ý kiến đánh giá khác nhau hoặc chưa rõ ràng về mặt lịch sử thì chưa xem xét đặt tên cho đường, phố và công trình công cộng.

    Theo nhiều công trình nghiên cứu mà tôi đã trực tiếp hoặc gián tiếp tham dự thì nhân vật tên CHỜ LÚN chưa từng nghe đề cập đến, xuất hiện trong giai đoạn lịch sử nào, có nguồn gốc: đức, tài, đóng góp thế nào cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cũng như của địa phương hoặc có đóng góp đặc biệt cho đất nước, lĩnh vực hoạt động văn hoá, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật cũng không thấy. Phạm vi sử học tôi xin chịu thua xin trả lời và xác nhận như thế.
Mạn đàm cụm từ TRÌNH ĐỘ VĂN HÓA


Ý KIẾN 1:  "Văn hóa" là danh từ thể hiện nét đẹp trong đối nhân xử thế, trong giao tiếp xã hội, trong các hoạt động nói chung của một con người trong đời sống. Đó là một "đại lượng" KHÔNG THỂ cân, đong, đo, đếm... Vì thế không thể có thuật ngữ "trình độ văn hóa"!
"Học vấn" là danh từ chỉ mức độ của việc học mà một con người đã (và có thể) đạt tới: tiểu học, trung học, đại học v.v... Ở mỗi "mức" như thế, ta có thể gọi là một "trình độ".
Như vậy, "văn hóa" và "học vấn" thuộc hai phạm trù riêng biệt.
Ai đó dùng thuật ngữ "trình độ văn hóa" là hoàn toàn không đúng và không thể chấp nhận được. Đã không thể nói "trình độ văn hóa" thì làm sao lại đem chúng so sánh với "trình độ học vấn"?
Ngay trong câu hỏi của bạn, bạn đã dùng từ sai (thừa cụm từ "trình độ") khiến câu hỏi không rõ nghĩa. Nếu bạn hỏi "Văn hóa và học vấn có khác nhau không?" thì câu hỏi rất rõ ràng, dễ hiểu.

Ý KIẾN 2:  Là khác nhau nhưng ở vn ta thì dùng như nhau vì thói quen để nói lên trình độ học vấn của ng đó! Sai ở chỗ là có thể một ng có trình độ học vấn là TIẾN SỸ nhưng vẫn hành xử thiếu VĂN HOÁ!



Ý KIẾN 3: . Bạn nên tra từ điển hai từ " học vấn" và " văn hoá" có giải nghĩa rất rõ ràng.
Hôm trước tôi có trả lời câu hỏi cho một bạn thắc mắc rằng " trình độ văn hoá" là không thể xác định. Đó là suy nghĩ của phần lớn chúng ta khi nói đến hai chữ VĂN HOÁ. Thưc ra trong từ điển Hán -Việt, " văn hoá" còn có nghĩa là " trình độ nhận thức". Vì thế hai cụm từ "trình độ văn hoá" và "trình độ học vấn" có nghĩa gần giống nhau. Cụ thể hơn, trình độ văn hóa là một phần của trình độ học vấn.

-Học vấn: Trình độ hiểu biết do học hỏi mà có.
-Văn hoá: Có 3 nghĩa:
1. Toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và tiêu biểu cho trình độ mà xã hội đã đạt được trong từng giai đoạn về các mặt học vấn, khoa học, kĩ thuật, văn học, nghệ thuật, triết học, đạo đức, sản xuất...
2. Trình độ học thức.
3. Người làm công tác về văn hoá.

Vậy rõ ràng khi nói: " Anh ta là người có trình độ văn hóa" khác với nói " Anh ta là người có văn hoá".
Trong các tờ khai lí lịch cá nhân , bạn để ý thấy có mục khai: "Trình độ văn hoá", tại sao người ta không thay mục đó bằng " Trình độ học vấn" ? Vì ở đây họ muốn biết "Trình độ học thức" của bạn mà thôi. Thường là kiến thức học phổ thông ( Trong hệ 12 năm ), lên đến Cao học, Đại học, Cao đẳng...thì lại phải sử dụng thuật ngữ "trình độ học vấn" mới chính xác.
Thân mến!

Ý KIẾN 4: . Văn hóa theo định nghĩa quý vị nêu như trên là đúng theo lý luận.Nhưng thực tế ở nước ta, rất nhiều từ ngữ chính thống đã có trong tự điển bị hiểu sai lệch đi và được dùng một cách đại trà và được hiểu theo nghĩa sai đó vì chưa có từ ngữ khác thay thế.

Trong các tờ khai lí lịch cá nhân , luôn có 2 mục khai: cột: Trình độ văn hoá và cột Trình độ chuyên môn. 2 cột nầy gộp lại được hiểu là trình độ học vấn.

Vậy Trình độ văn hóa ở đây có nghĩa là gì? Tại sao không làm 1 cột thôi và khai mức học cao nhất PTTH, trung cấp, cao đẳng, đại học, thãc sĩ, tiến sĩ.....

Trình độ văn hóa theo nghĩa ( sai ) thực tế thường dùng:

Xuất phát từ tồn tại xã hội, trước khi đất nước thống nhất hệ đào tạo 2 miền Nam Bắc không giống nhau, (hệ PT10 năm, 12 năm ), nhiều hệ đào tạo ở nhiều cấp học ( hệ phổ thông, hệ BTVH, hệ tại chức, hệ chính quy, .....). Trong thực hiện đào tạo lực lượng quản lý xã hội thập niên 70, 80, có rất nhiều sự chiếu cố các đối tượng đã tham gia cách mạng không có học vấn, hoặc bỏ dỡ việc học hành nay tiếp tục học lại. Một số lượng khổng lồ cán bộ cắp sách đến trường đị học BỔ TÚC VĂN HÓA. Chính từ ngữ nầy đã hình thành cụm từ: Trình độ văn hóa. Đi học BTVH là được học một chương trình rút gọn từ phổ thông trung học gồm công dân, lịch sử, địa lý, sinh toán lý hóa v.v...từ lớp 1 đến lớp 12. Như vậy trình độ văn hóa ở đây được hiểu là đã lớp mấy của hệ BTVH hoặc PTTH ( Nếu thừa nhận tồn tại xã hội như trên thì chúng ta tạm chấp nhận Trình độ văn hóa có nghĩa như trên )

Mặc khác để phục vụ cho điều tra xã hội học, các nhà quản lý cần thống kê rõ tất cả các trường hợp, vì thực tế đang tồn tại:

1/ Trường hợp số người có bằng ĐH hoặc tiến sĩ, nhưng ở trung học chỉ học tới lớp 10 hệ miền Bắc trước 1975

2/ Trường hợp số người có bằng ĐH ( Cử nhân ) nhưng ở trung học chỉ học tới lớp 11 hệ BTVH

3/ Trường  hợp số người có bằng trung cấp nhưng chỉ học lớp 9 PTTH

Vân vân và vân vân.......

Trường hợp 1 được ghi Trình độ văn hóa 10/12 – Trình độ chuyên môn: Tiến sĩ ( toán…)

Trường hợp 2 được ghi Trình độ văn hóa 11/12 – Trình độ chuyên môn: Cử nhân ( luật…)

Trường hợp 3 được ghi Trình độ văn hóa 9/12 – Trình độ chuyên môn: Trung cấp ( điện )

Có thể không cần giải thích dong dài, quý vị có thể hiểu như tôi đã trình bày mặc dù từ ngữ sai bét nhưng chúng ta hiểu đúng thực tế như thế.

                              Thân mến!

Tôi và chúng ta


Trong lễ báo công mừng thắng lợi của dự án, giám đốc đơn vị phát biểu.

- Nói thật với các đồng chí, rất nhiều người ngạc nhiên trước thành công của dự án nhưng tôi thì không!

Tôi đã trăn trở suy tư rất nhiều trước dự án này, tôi đã phác thảo tiến trình và lập kế hoạch chi tiết cho dự án. Tôi đã tính đến những thuận lợi và lường trước những khó khăn. Tôi đã phân công công viêc phù hợp cho từng phòng ban. Tôi đã chỉ đạo kỹ càng và kiểm tra rất sát sao, vì vậy tôi không nghi ngờ về thành công của dự án.

Hơn một năm sau tại cuộc họp kiểm điểm về dự án kém hiệu quả, giám đốc này phát biểu:

- Các đồng chí thấy đấy, chúng ta đã quá chủ quan. Chúng ta quá say sưa trước những thắng lợi bước đầu của dự án dẫn đến mất cảnh giác. Chúng ta đã quá tin vào công nghệ do phía đôi tác thuyết trình, chúng ta đã quá tin vào đối tác cung cấp vật tư kỹ thuật cho chúng ta, vì thế chúng ta đã không thuê các chuyên gia thẩm định lại kỹ càng. Nói tóm lại chúng ta mắc bệnh chủ quan và rất thiếu kinh nghiệm….chúng ta phải rút ra bài học sâu sắc về vấn đề này, và đặc biệt chúng ta phải chung tay tháo gỡ những khó khăn để thoát khỏi tình trạng trì trệ…
Một chút nhìn lại khung cảnh ngày xưa






      Mời các bạn đóng góp cho gian đồ cổ nầy thêm phong phú





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét